Lòng nhân hậu là thứ tình cảm thiêng liêng, là sự tôn trọng, yêu thương, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau giữa con người và con người. Tấm lòng nhân hậu cũng được xuất hiện rất nhiều trong các truyện cổ tích, là bài học nhân văn đối với mỗi con người, và trong bài viết hôm nay toplist sẽ giới thiệu đến bạn top các truyện cổ tích về lòng nhân hậu hay nhất. hãy cùng theo dõi với baoveangiang.com nhé.
Bạn đang xem: Truyện cổ tích nói về lòng nhân hậu
Tổng hợp truyện cổ tích về lòng nhân hậu
Dưới đây gồm những câu chuyện cổ tích về lòng nhân hậu hãy theo dõi và đọc them ở bên dưới nhé.
Truyện cổ tích về tấm lòng nhân hậu Chiếc áo tàng hình
Chiếc áo tàng hình câu chuyện kể về anh chài tên Triều vì lòng tốt nên anh đã được ông Tiên ban cho chiếc áo tàng hình, anh mang áo đi giúp đỡ mọi người nghèo khổ khắp nơi và cuối cùng nhờ giúp nhà vua nên anh đã được làm quan.
“Ngày xửa ngày xưa, ở vùng Cao Bằng có một chàng trai trẻ tuổi tên là Triều làm nghề chài lưới. Gia sản của Triều không có gì ngoài bộ đồ nghề làm ăn. Nhưng tính anh vốn hay thương người. Mỗi lần đánh được nhiều cá, anh thường đổi lấy gạo đem chu cấp cho những người túng thiếu mà anh gặp. Vì vậy người nghèo khổ trong vùng, ai ai cũng đều yêu mến.
Ở Cao Bằng một thời gian, Triều lại dời sang đánh cá ở vùng Thái Nguyên. Ở đây, anh lại cứu giúp mọi người không tiếc sức. Một hôm, không đánh được mẻ cá nào, lúc về dọc đường, anh bỗng thấy một ông lão ăn mày đang nằm run rẩy dưới gốc cây. Động lòng thương, anh cởi ngay chiếc áo đang mặc đắp vào người ông cụ.
Bẵng đi một dạo, một hôm anh đang buông chài giữa sông, bỗng nghe trên núi cao có tiếng đàn văng vẳng. Anh dừng lại nghe một cách say sưa. Qua ngày hôm sau, anh lại được nghe tiếng đàn trên núi như hôm qua.
Hôm sau nữa, cũng từ trên ngọn núi cũ, tiếng đàn quen thuộc lại bay đến tai anh. Lấy làm lạ, anh vội thu xếp đồ nghề của mình, rồi tìm đường trèo lên núi, quyết tìm cho ra người gảy đàn.
Lần theo tiếng đàn, anh vạch cỏ rẽ lau tiến bước. Cuối cùng, đến một bãi rộng, anh thấy một cụ già đang ngồi trên phiến đá. Ông cụ mải mê gảy đàn không biết có người tới gần. Triều nhận ra khuôn mặt cụ già này rất giống với ông cụ nằm ở gốc cây hôm nọ. Chờ cho bản đàn dứt hẳn, anh đến trước mặt hỏi:
– Thưa cụ, cụ là ai mà ngồi đánh đàn ở đây?
Ông cụ ngước mắt nhìn anh một cách âu yếm, rồi chỉ vào một phiến đá trước mặt, bảo:
– Ta ngồi đợi con đây! Con trèo núi có mệt lắm không? Con hãy ngồi xuống đây nghỉ một tí.
Triều vừa đỡ chén nước ở tay ông cụ, đã nghe ông cụ hỏi:
– Con có nhớ ta không?
– Có ạ. Cụ có phải là người nằm ở gốc cây đa đầu làng hôm nọ không?
– Đúng vậy. Hôm nọ, con đành chịu mình trần để nhường áo cho ta. Tấm lòng này thật là ít có. Nay ta muốn đền cho con một chiếc áo khác.
Nói xong, ông cụ cởi chiếc áo đang mặc, quàng vào mình Triều rồi biến mất. Triều đứng thẫn người, ngỡ ngàng một lúc, mới biết thì ra ông cụ chính là một ông tiên hóa thành.
Từ ngày được áo của tiên cho, Triều mới biết đấy không phải là chiếc áo thường mà là một bảo vật, có phép làm cho người ta tàng hình. Mỗi lần mặc áo, không một ai nhận ra có anh ở trước mặt. Triều mừng quá, từ đấy anh đi chu du khắp nơi.
Anh thường mặc áo rồi tìm đến nhà bọn giàu có, đường hoàng đi vào khắp các phòng của chúng, lấy gạo tiền cho những người nghèo. Anh kín đáo trị tội những kẻ bất lương, bạc ác. Có những người vì quá cơ cực đang nằm lả bên vệ đường mà thở than thì bỗng thấy có những quan tiền trước mặt. Có những tên quan đang nọc người ra đánh giữa công đường thì chính hắn bỗng bị quất vào lưng đau quằn lên, nhưng ngoảnh lại thì vẫn không hề tìm thấy ai.
Nhiều sự việc giống nhau xảy ra, làm cho lời đồn đại lan khắp cả một vùng. Người lo, kẻ mừng, nhưng ai cũng tin rằng Trời Phật đã có con mắt.
Cứ như thế Triều đi khắp nơi và giúp đỡ người cùng khổ. Một hôm, anh tìm đến đất kinh kì. Mặc áo vào, anh tha hồ đi đó đây cho thoả mắt. Hết vào nhà bọn quyền quý, anh lại vào cung cấm là nơi từ xưa không một người nào như anh dám bước chân đến. Thấy người nghèo khó nhan nhản khắp phố phường, anh lẻn vào kho tàng nhà vua lấy của ra phân phát cho họ. Vì thế kho công luôn luôn bị hao hụt, nhưng không một ai tìm ra thủ phạm cả.
Trong khi đó thì khắp kinh đô đồn ầm lên rằng có một vị tiên thường cứu giúp những người đói khổ và trừng trị những tên gian tà. Ở đâu tiên cũng có mặt, nhưng lại không xuất đầu lộ diện bao giờ.
Về phía Triều, anh vẫn ngày ngày làm công việc cứu giúp dân nghèo, coi đây là phận sự của mình, mà không hề băn khoăn đến chuyện báo đáp. Anh đã làm cho bọn giàu sang xiết bao sợ hãi, lo lắng khi thấy tiền của chúng tự nhiên không cánh mà bay, mặc dầu trong nhà ngoài ngõ đều có người canh gác cẩn mật.
Nhưng một hôm, sau khi trừng trị một tên quyền quý ỷ thế đánh người, anh vội lẻn ra khỏi nhà hắn ngay vì thấy kẻ hầu người hạ của hắn nghe tiếng động đổ xô tới rất đông. Giữa lúc vội vàng, anh vướng vào một chiếc gai tre ở bờ giậu làm cho chiếc áo toạc mất một miếng. Sợ rằng để vậy có thể bị lộ nên anh đã dùng một mụn giẻ vá lại. Sau đó, hàng ngày anh lại vào kho nhà vua tiếp tục phận sự của mình.
Từ ngày thấy ngân khố trong kho luôn bị hao hụt, nhà vua hết sức lo lắng. Vua hạ lệnh cho bọn quan coi kho phải tìm bắt cho kỳ được tên trộm bí mật, nếu không sẽ trị tội không tha. Bọn này nhiều phen cố sức rình mò nhưng chỉ hoài công vô ích. Tiền bạc trong kho cứ vơi dần mà chúng vẫn không tìm ra dấu vết gì đáng kể. Sau cùng, chúng sai thửa một kiểu bẫy lưới rất nhạy để chụp vào những nơi mà chúng nghi ngờ.
Hôm ấy, bọn quan coi quốc khố bỗng thấy có một con bươm bướm trắng ngoài cổng bay vào kho. Bướm bay đi dạo lại những đĩnh bạc trắng xoá, rồi bướm lại thủng thỉnh bay ra. Lập tức chúng chụp ngay lưới xuống chỗ có bướm. Và thế là Triều bị bắt. Chỉ vì miếng vải vá vào chiếc áo tàng hình khiến anh bị lộ. Bắt được Triều, bọn quan trông coi quốc khố mừng lắm, liền giải anh lên vua. Vua sai bỏ ngục để chờ xét xử.
Hồi ấy, có ông vua bên nước láng giềng từ lâu vẫn nuôi ngầm mưu mô đánh chiếm nước ta. Giữa lúc Triều bị hạ ngục, thì hàng vạn binh mã của nước láng giềng cũng đang ùn ùn kéo sang. Nhà vua đã cho quân đội ra chống giữ, nhưng đánh trận nào thua trận ấy, không sao ngăn cản được kẻ địch tiến như vũ bão.
Tình hình bỗng trở nên nguy ngập. Tin cấp báo từ biên giới một ngày đưa về không biết bao nhiêu chuyến ngựa trạm, làm cho kinh đô nháo nhác. Nghe được tin này, Triều liền bảo quan coi ngục tâu vua cho mình được đi dẹp giặc cứu nước. Nhà vua mừng quá, vội sai tháo xiềng cho anh, và gọi anh đến hỏi:
– Nhà ngươi cần bao nhiêu binh mã?
– Tâu bệ hạ, chỉ cần một mình thảo dân cũng có thể đuổi được giặc dữ. Chỉ xin bệ hạ ban cho thảo dân một thanh gươm.
Vua liền cởi gươm của mình trao cho Triều và phong anh là Hộ quốc tướng quân. Lệnh cho quân đội phải tuân theo lệnh anh.
Trước ngày lên đường, những người nghèo khổ nghe tin Triều được tha và phong tướng đi đánh giặc, đều tìm đến cảm ơn và tình nguyện đi theo. Triều cho sắp xếp thành đội ngũ và cùng kéo nhau lên đường.
Lúc đến vùng quân giặc đang chiếm đóng. Triều mặc ngay chiếc áo tàng hình vào người đi thẳng vào trại giặc. Chỉ một lát sau, anh chém chết tên chỉ huy toán quân tiên phong. Bọn giặc mất tướng như rắn không đầu, bỏ chạy tán loạn. Những người đi theo Triều chỉ việc chia nhau đón khắp các nẻo tóm cổ đưa về.
Đến những trại khác của giặc, Triều cũng làm như vậy. Không bao lâu cả đội tiên phong tinh nhuệ của giặc bị tiêu diệt và bị bắt sống, không sót một tên. Các đội quân khác còn lại kinh hoàng, cho là bên phía Đại Việt có vị thần thiêng trợ chiến nên bao nhiêu tướng tài của mình đều bị chém đầu.
Thấy quân sĩ ngã lòng, vua nước láng giềng đành hạ lệnh lui binh. Từ đấy biên giới lại vô sự. Khắp nơi ai nấy ca đều ngợi ca công lao của Triều.
Lúc Triều kéo quân khải hoàn, nhà vua vui mừng ra đón, hết lời khen ngợi anh. Vua phong cho Triều làm quan đại thần, chia đất đai và bổng lộc rất hậu, lại gả con gái cho anh làm vợ.
Từ đấy về sau, người ta quen gọi anh là Quan Triều. Ngày nay ở Cao Bằng và Thái Nguyên còn có đền thờ Quan Triều.”

Câu chuyện Đường lên trời

Chàng Ngốc và con ngỗng vàng
Chàng Ngốc và con ngỗng vàng là câu chuyện cổ Grimm, kể về một chàng Ngốc hiền lành tốt bụng, biết giúp đỡ người khác đã được sống hạnh phúc bên công chúa.
Ngày xửa ngày xưa, hai vợ chồng nhà kia có ba người con trai, bao nhiêu khôn ngon dồn cả vào hai người anh, còn chàng út thì dại khờ ngốc nghếch nhưng lại rất tốt bụng, người ta gọi chàng là chàng Ngốc. Ngốc thường bị khinh rẻ, chế giễu và không được tham gia vào việc gì trong gia đình.
Một hôm, người anh cả muốn vào rừng đốn củi. Trước khi đi, người mẹ làm cho anh một chiếc bánh trừng ngon lành và một chai rượu vang mang theo để ăn. Vào tới rừng thì anh gặp một ông lão nhỏ bé, tóc hoa râm, chào anh và nói:
– Cho lão xin miếng bánh và một ngụm rượu vàng. Lão đang cảm thấy rất đói khát và mệt mỏi.
Anh chàng khôn ngoan đáp: – Nếu tôi cho lão bánh và rượu thì tôi ăn bằng gì! Thôi, lão xéo đi!
Rồi anh để mặc ông lão ở đấy mà đi.
Anh đẵn cây được một nhát thì trượt tay, rìu chém vào cánh tay, phải về nhà băng bó. Tai nạn ấy chính do ông lão bé nhỏ gây ra.
Người con thứ hai phải thay anh cả vào rừng. Người mẹ cũng làm cho một chiếc bánh trứng và một chai rượu vang y như với anh cả. Tới rừng, anh cũng gặp ông lão bé nhỏ đến xin miếng bánh và ngụm rượu. Người anh thứ hai cũng từ chối:
– Không được! Tôi cho lão cái gì thì là tôi thiệt cái ấy. Thôi, lão xéo đi cho khuất mắt!
Rồi anh để mặc ông lão ở đấy mà đi.
Xem thêm: Hướng Dẫn Tải Liên Minh Huyền Thoại: Tốc Chiến Cho Ios Nhanh Nhất
Anh cũng bị trừng phạt ngay, chỉ mới chặt được vài nhát thì rìu đã văng vào chân, phải lê về nhà băng bó.
Thấy cả hai đều bị thương, chàng Ngốc liền nói: – Thưa bố, để con đi đốn củi thay hai anh.
Người bố đáp: – Thôi! Hai anh mày còn bị thương. Mày đốn củi thế nào được!
Chàng Ngốc xin mãi, cuối cùng ông bố đành bảo: – Thế thì mày cứ đi đi. Có vấp thì mới sáng mắt ra.
Mẹ cho Ngốc một chiếc bánh luộc ủ tro và một chai bia chua.
Anh vào rừng cũng gặp ông lão bé nhỏ tóc hoa râm. Ông lão chào anh rồi bảo:
– Cho lão xin miếng bánh và một ngụm rượu vàng. Lão đang cảm thấy rất đói khát và mệt mỏi.
Chàng Ngốc đáp:
– Cháu chỉ có bánh ủ tro và bia chua thôi. Nếu ông thấy dùng được, thì ông cháu ta ngồi xuống cùng ăn.
Họ ngồi xuống. Chàng Ngốc rút bánh ủ tro ra thì thấy một chiếc bánh trứng ngon lành; bia chua đã biến thành rượu vang. Ăn uống xong, ông lão bảo: – Cháu tốt bụng, sẵn sàng chia phần của mình cho người khác. Thật đáng khen! Để lão ban phúc cho. Chỗ kia có một cây cổ thụ, cháu đẵn xuống sẽ thấy trong đám rễ cây có của quý.
Nói xong, ông lão từ biệt lên đường.
Chàng Ngốc đi đẵn cây theo chỉ dẫn của ông lão. Trời xế chiều thì cây được hạ xuống, chàng bới trong đám rễ thấy có một con ngỗng lông bằng vàng thật. Chàng nhấc ngỗng lên, ẵm vào một quán trọ để ngủ đêm.
Chủ quán có ba cô con gái. Ba cô thấy con ngỗng vàng, tò mò không biết con chim gì mà lạ thế, chỉ muốn lấy một chiếc lông của nó.
Cô cả nghĩ cách nhổ trộm một chiếc. Khi chàng Ngốc vừa ra ngoài, cô nắm ngay lấy cánh ngỗng. Nhưng tay bị dính chặt vào đó, không rút ra được.
Một lát sau, cô thứ hai cũng đến và chăm chăm muốn lấy một chiếc lông vàng. Cô vừa đụng đến thì bị dính ngay vào chị.
Cô thứ ba tới cũng định tâm lấy một cái lông vàng, hai cô chị thấy em liền kêu lên: – Ối, ối, tránh ra, tránh ra! Đừng lại gần đây!
Cô út chẳng hiểu tại sao lại phải tránh ra, nghĩ bụng các chị lấy thì mình cũng phải lấy được, liền nhảy lại. Cô vừa đụng vào thì bị dính ngay. Thế là cả ba cô suốt đêm phải ở liền với con ngỗng vàng.
Sáng hôm sau, chàng Ngốc mang ngỗng ra đi, cũng chẳng để ý đến ba cô gái bị dính vào ngỗng. Các cô lẽo đẽo theo sau, rẽ sang phải sang trái theo bước chân của anh. Giữa đồng, cha xứ gặp cả đoàn người bèn nói: – Đồ gái quạ mổ, không biết xấu hổ à? Cứ bám lấy giai ra đồng như vậy coi có được không?
Cha liền nắm tay cô út kéo lại. Cha vừa đụng đến thì chính cha cũng bị dính vào và phải lẽo đẽo đi theo.
Một lúc sau, người giữ đồ thánh thấy cha xứ lẽo đẽo theo ba cô gái, ngạc nhiên quá, hỏi: – Thưa cha, cha đi đâu mà vội vàng thế? Cha nhớ là hôm nay còn phải làm lễ rửa tội cho một đứa trẻ đấy!
Ông ta chạy theo nắm tay áo cha thì cũng bị dính vào.
Năm người bước thấp bước cao như vậy thì gặp hai bác nông dân vác cuốc ở đồng về. Cha xứ gọi họ, nhờ gỡ hộ mình và người giữa đồ thánh ra. Hai bác nông dân vừa sờ đến thì bị dính vào nốt. Như vậy, cả thảy bảy người đi theo chàng Ngốc ôm ngỗng.
Anh đi tới kinh thành. Nhà vua có một cô công chúa bao nhiêu năm nay không ai làm cho cô cười được. Vua phán: Ai làm cho cô cười thì được lấy cô. Chàng Ngốc nghe thấy nói vậy, liền vác con ngỗng vàng và cả bảy người theo đuôi đến trước công chúa. Công chúa thấy bảy người lếch nhếch theo nhau, bật cười thành tiếng, rồi không kìm lại được nữa, nàng cứ khanh khách cười mãi.
Chàng Ngốc đòi vua thực hiện lời hứa. Vua không thích chàng rể này, viện cớ từ chối, lệnh cho chàng phải tìm ra người uống hết một hàm rượu vang thì mới cho lấy công chúa.
Chàng Ngốc nghĩ đến ông lão nhỏ bé đã giúp mình hôm trước, liền vào rừng tìm. Tới chô cây đẵn, anh thấy cố một người ngooif, mặt buồn rười rượi. Anh hỏi sao lại buồn bã thế. Người đó đáp: – Tôi khát quá, uống bao nhiêu cũng không đỡ khát. Quả là tôi đã uống cạn một thùng rượu, nhưng chẳng qua mới như muỗi đổ bể.
Chàng Ngốc nói: – Thế để tôi giúp anh. Anh chỉ việc đi với tôi là tha hồ uống.
Anh dẫn người ấy đến hầm rượu của nhà vua. Người đó nhảy xổ vào những thùng rượu to, uống mãi, uống mãi đến căng bụng. Chưa hết một ngày, anh ta đã uống sạch cả hầm rượu.
Chàng Ngốc lại đòi nhà vua thực hiện lời hứa. Vua bực lắm, không muốn để một tên dơ bẩn mà mọi người vẫn gọi là Ngốc lấy con gái mình. Nên vua lại ra những điều kiện mới: phải tìm được một người ăn hết một núi bánh. Chàng Ngốc chẳng suy nghĩ lâu la, liền đi ngay vào rừng, vẫn ở chỗ đó có một người mặt mũi thiểu não, thắt chặt bụng bằng dây da và nói: – Tôi đã ăn cả lò bánh mà chẳng ăn thua gì. Tôi đói quá. Bụng vẫn lép kẹp, phải thắt chặt lại kẻo đói lắm.
Chàng Ngốc thấy vậy mừng rỡ lắm, bảo: – Thế thì đi đi, đi với tôi tha hồ no nê.
Anh dẫn người đó vào triều. Vua cho tập trung bột mì trong cả nước lại, rồi sai nướng một núi bánh khổng lồ. Người đó chỉ ăn một ngày hết sạch.
Lần thứ ba, chàng Ngốc lại đòi lấy công chúa. Vua tìm cách thoái, đòi có một chiếc tàu đi được cả trên cạn lẫn dưới nước.
Vua nói: – Nếu tàu ấy cập bến thì lấp tức người được lấy con gái ta.
Chàng Ngốc lại đi thẳng vào rừng. Ông lão được anh cho bánh vẫn ngồi đó, ông bảo: – Chính lão đã uống rượu và ăn bánh cho anh. Để lão cho anh chiếc tàu. Lão sẽ giúp anh vì anh đã cư xử tử tế với lão.
Lão bèn lấy rìu đẽo cái cây mà Ngốc đã hạ mấy hôm trước, biến thành một chiếc tàu. Chiếc tàu này không những đi được cả trên cạn lẫn dưới nước mà còn có thể bay được cả trên trời. Vua thấy không có cách gì từ chối nữa, đành phải tổ chức đám cưới.
Chàng Ngốc hiền lành tốt bụng, biết giúp đỡ người khác đã sống hạnh phúc bên công chúa. Sau khi vua mất, chàng được lên nối ngôi.

Sự tích con cua
Sự tích con cua muốn đề cao tính tốt bụng nhân hậu của cô gái mồ côi sống cùng người mẹ kế, dù cho cuộc sống có bất hạnh, chịu nhiều tổn thương, đòn roi từ người mẹ kế nhưng cô vẫn giữ trong mình một sự hồn nhiên tốt bụng, biết giúp đỡ người khác, và đã được đền đáp cho lòng tốt của mình, bên cạnh đó yếu tố đặc biệt của câu chuyện là việc người con gái ruột đỏng đảnh của mẹ kế bị biến thành con cua cả đời phải chui lủi xống bùn đất vì khinh thưởng người khác. Tính nhân văn trong tác phẩm được nêu cao về lòng nhân hậu của con người đối mặt với các ác và cái ác nhất định sẽ có ngày bị trừng trị.
Sự tích con cua là truyện cổ tích về loài vật, răn dạy các bé phải biết giúp đỡ người khác trong cuộc sống, cũng như lễ phép với những người lớn tuổi. Câu chuyện kể về một cô gái xinh đẹp, nết na nhưng kém may mắn hơn những người khác. Cô mồ côi mẹ lúc chưa đầy tháng tuổi. Cha lấy vợ kế được một thời gian thì chẳng sao ông sinh bệnh rồi qua đời, để lại cô con gái bé bỏng một mình. Cô gái sống với mẹ kế cùng đứa con riêng của mẹ. Cô con gái riêng của bà mẹ kế suốt ngày chỉ ra ngắm vào vuốt, chẳng phải làm việc gì cả, mà có làm gì thì cũng chẳng thành. Nhưng mọi lời khen ngời bà mẹ đều dành cho cô ta và cô ta lấy thế làm hãnh diện lắm. Lúc nào công ta cũng vênh vênh, váo váo, kiêu kỳ, tự cao tự đại cứ như mình là lá ngọc cành vàng vậy. Còn cô gái mồ côi thì phải làm hết mọi việc. Biết thân phận mình, vốn tính hiền lành, ngoan ngoãn, cô chịu đựng hết thảy, nín lặng làm hết mọi việc bà mẹ ghẻ đổ lên đầu. Cô dằn lòng gánh chịu mọi lời mắng chửi trút xuống đầu mình. Bao nhiêu người thương mến cô, thông cảm cho hoàn cảnh của cô, nhưng họ chẳng biết làm gì để giúp cô bớt khổ. Một hôm khi ra bờ suối giặt đồ cho mẹ kế và con gái riêng của bà, cô gặp một bà cụ rách rưới, bẩn thỉu đứng bên cạnh con phều phào xin nước uống. Nước sông đục ngầu nên cô lấy ống nước đem theo đưa cho bà cụ. Bà cụ uống nước xong liền cho cô cái bọc nhỏ, bảo là thưởng cho lòng tốt của cô. Mở ra thấy chiếc váy đẹp này, cô định trả lại cho bà cụ, nhưng không thấy bà đâu nữa. Về nhà cô bị mẹ kế phát hiện và đánh đập bắt khai ra cái váy ấy ở đâu. Biết được cô gái tội nghiệp không nói dối mụ mẹ kế liện tính các cho con gái của mình ra sống giặt đồ để gặp được bà lão tiên xin cho được đẹp hơn. Kể từ hôm đó cô gái tội nghiệp không phải ra sống giăt đồ nữa , cô con gái riêng của mụ mẹ kế đã thay thế công việc cho cô. Việc giặt đồ ở sông không dễ thực hiện nhưng mong muốn được gặp bà tiên để xin cho mình đỡ xấu đã thôi thúc cô ta. Một hôm khi đang giặt đồ ở sông thì người con gái của người mẹ kế đã thấy một bà lão xuất hiện. Nhìn thấy bà cụ, cô gái kiêu kỳ định lấy bầu nước của mình ra đưa cho bà. Nhưng bà cụ lại bảo nhờ cô giặt giúp cái váy lấm lem bùn của bà ấy. Cô gái đỏng đảnh đáp “Cái mụ già bẩn thỉu này. Bà nghĩ tôi là gì mà bảo tôi làm cái việc ghê tởm ấy. Dạng bà xách dép cho tôi còn chưa xứng.” Lập tức bà lão liện hiện hình là một bà tiên , cô gái đỏng đảnh hốt hoảng kêu lên. Cô ta hiểu là mình đã phạm sai lầm không thể cứu vãn được. Thế là công toi mấy ngày mình phải chịu khổ sở. Cô gái mở miệng định xin bà cụ tha lỗi và cầu xin cụ cho mình được xinh đẹp thì bà cụ đã nghiêm sắc mặt. Bà cụ đáp “Một con người có tâm hồn xấu xí thì không thể trở thành người con gái xinh đẹp được. Lũ các ngươi phải bị trừng phạt”. Bà cụ nói xong thoắt biến mất như chưa từng xuất hiện ở đấy. Liền sau đó, cô gái đỏng đảnh cũng biến mất. Ở chỗ cô ta vừa đứng, xuất hiện một con vật nho nhỏ, xám xịt, chân cẳng tua tủa. Đến nay cứ thấy người lại gần con vật đó lại vội lủi xuống sông. Đó chính là con cua.

Vậy là mình đã hoàn thành những câu chuyện cổ tích về tấm lòng nhân hậu . Chúc các bạn đọc thật vui nhé.