L.G.T.-Bất ngờ đọc được bài Tâm Tình Về NgườiLính Năm Xưa, do ông Phạm Phú Nam – Giám Đốc Dân Sinh Media – phỏng vấn Điệp MỹLinh, Người Tưởng Đã Nhảy Xuống Biển Tự Tử từ Dương Vận Hạm Thị-Nại, HQ502, năm1975, liên lạc với Điệp Mỹ Linh.
Bạn đang xem: Chuyến bay định mệnh
Nhận thấy trường hợpdi tản của cựu quân nhân này cũng rất hy hữu, Điệp Mỹ Linh thực hiện cuộc phỏngvấn ngắn để người Việt trốn thoát chế độ Cộng Sản Việt-Nam – cũng như hơn nămngàn người Việt trên HQ502 đã chứng kiến cảnh Người Nhái Nguyễn Văn Kiệt tiếp cứuquân nhân Không Quân này trên biển – được hiểu rõ thêm nhiều chi tiết.(1)
Kính chào anh Nhiễm.
Kính chào chị Điệp Mỹ LinhXinanh cho biết tên, họ. Anh bị động viên hay là quân nhân tình nguyện? Anh xuất thân khóa mấy Sĩ Quan KhôngQuân hay là anh từ Trường Bộ Binh Thủ Đức chuyển sang?
Thưa chị, tôi làNguyễn Viết Nhiễm, tình nguyện gia nhập khóa Hạ Sĩ Quan Cơ Khí Phi Hành năm1972 tại căn cứ Tân Sơn Nhất, vài tháng trước Mùa Hè Đỏ Lửa.
Anhlàm ơn cho biết đơn vị cuối cùng của anh. Nếu anh từ miền Trung hoặc Cao Nguyêndi tản về Saigon, anh vui lòng kể lại chuyến di tản của anh.
Thưachị, năm 1975 tôi mới 22 tuổi, độc thân và còn sống với Bố Mẹ ở khu đối diện cổngC của Sư Đoàn Nhảy Dù, gần ngã tư Bảy Hiền, chỉ cách phi trường Tân Sơn Nhấtkhoảng 10 phút xe.
Tráchnhiệm của đơn vị tôi phục vụ, Phi Đoàn 720 những ngày mới thành lập, là phối hợpvới Hải Quân tuần tiễu vùng Duyên Hải miền Nam. Nhưng chỉ một thời gian ngắnsau, vì nhu cầu chiến trường, Phi Đoàn 720 được xử dụng như một Phi Đoàn vận tải,chuyên chở quân nhân, hành khách và hàng hóa đi khắp miền Nam. Do đó tôi đã cómặt trong những chuyến di tản vào tháng Ba và tháng Tư năm 1975.
Tạiphi trường Pleiku, trưa tháng Ba 1975, trong lúc chúng tôi chờ đợi cho hànhkhách lên phi cơ về Saigon thì phi trường bị pháo kích. Tất cả hành khách vàquân nhân đang làm việc chạy tán loạn ngược về phía trạm hàng không; tôi và anhTrưởng Phi Cơ chui xuống một hố cá nhân kế bãi đậu.
Khitiếng pháo kích tạm ngưng, chúng tôi vội vã trở lại phi cơ để về Tân Sơn Nhấtthì thấy anh Áp Tải đã bị tử thuơng ngay bên cạnh chiếc phi cơ. Chuyến bay trởvề Tân Sơn Nhất hôm đó trong thân tàu không có một hành khách nào ngoại trừthân xác của anh Áp Tải.
Cuốitháng Ba, 1975 trong một ca Trực Hành Quân, chúng tôi được điều động đến phitrường Phù Cát để “bốc” quân nhân Không Quân và gia đình về Nha Trang. Khi phicơ vừa chạm bánh trên phi đạo, chúng tôi thấy cả ngàn lính, đủ mọi quân binh chủng,từ mé trái phía cuối phi đạo, cùng ùa chạy ra phi đạo. Trước tình trạng vô trậttự đó, Trưởng Phi Cơ quyết định không vào trạm hàng không như thường lệ mà cho phicơ chạy đến cuối phi đạo rồi quay đầu lại 180 độ, vẫn để 2 máy quay và chỉ mở 2cánh cửa đuôi để kéo lính lên. Vì phi trường Phù Cát thiếu an ninh, cho nên,sau phi vụ đó chúng tôi được lệnh không trở lại để “bốc” thêm chuyến nào nữa.
Kếtiếp là những chuyến di tản quân nhân và gia đình từ Nha Trang về Phan Rang, rồitừ Phan Rang về Sài Gòn. Những chuyến di tản này trật tự được duy trì chứ khônghỗn loạn như ở Phù Cát.
Khoảng6:00 giờ chiều cùng ngày, 3 chiếc A-37 từ Phan Rang vào thả bom xuống Tân Sơn Nhất.
Xin anh cho biết nguyên do anh gặp lạibạn cùng xóm và cả hai anh lấy L19 bay ra biển từ phi trường nào? Lúc mấy giờ?Lúc đó tình hình tại phi trường đó như thế nào?
Thưachị, phi công lái L-19 là Thiếu Uý Nguyễn Thành Hưng. Anh Hưng phục vụ tại PhiĐoàn 120 Quan Sát, Sư Đoàn I Không Quân, trong phi trường Đà Nẵng. Tôi và anhHưng thân nhau từ năm 15 tuổi khi cả 2 cùng sinh hoạt chung trong toán Nhân DânTự Vệ.
KhiQ.L./V.N.C.H. di tản khỏi vùng I, đơn vị của anh Hưng được dời về Tân Sơn Nhất.Trong thời gian chờ đợi để bổ sung, ngoài giờ làm việc anh, Hưng trở về sốngtrong căn nhà của Bố Mẹ anh. Những buổi sáng rảnh rỗi chúng tôi thuờng xuyên gặpnhau tại một quán café gần nhà.
Tối28/4, khoảng 11:00 giờ, những sĩ quan cao cấp của Không Đoàn và các Phi Đoàn đãđem gia đình ra Côn Sơn; ngoài ra chúng tôi không nhận được một tin tức hoặc chỉthị nào khác. Trong khoảng thời gian này thỉnh thoảng Cộng Sản lại pháo vài tráivào phi trường. Một, hai trái nổ rất gần chúng tôi. Trước tình trạng nguy hiểmđó, anh Hưng và tôi quyết định trở về nhà để tránh pháo kích.
Sáng29/4, khi đang uống café tại quán, chúng tôi nghe đài phát thanh thông báo Bộ TổngTham Mưu ra lệnh tất cả quân nhân phải trở lại đơn vị. Thời điểm đó, anh Hưngđang đợi bổ sung, đơn vị của tôi tại Tân Sơn Nhất, cho nên chúng tôi bảo nhau cùngvào Tân Sơn Nhất.
Khoảng9:00 giờ sáng chúng tôi vào đến Phi Đoàn 720. Số người có mặt trong Phi Đoàn rấtít. Tuy nhiên các vị chỉ huy của Phi Đoàn có mặt đầy đủ. Anh Hưng và tôi trở vềnhà.
Khoảng11:00 giờ trưa cùng ngày, đang đùa giỡn với vài người bạn hàng xóm, tôi thấy mộtchiếc C-119 thuộc Phi Đoàn của tôi cất cánh, kế tiếp là vài chiếc C-130. Tôiđoán có lẽ các Phi Đoàn đã được lệnh mang phi cơ đi về vùng IV để tránh pháokích. Tôi vội chạy qua nhà anh Hưng, rủ anh cùng trở lại phi trường Tân Sơn Nhất.
Bêntrong phi trường lúc này rất vắng vẻ. Lối ra các bãi phi cơ chẳng còn ai canhgác. Vào đến nơi thì nguyên một khu vực rộng lớn gồm các Phi Đoàn 720, Phi Đoàn435, Phi Đoàn 437 và Không Đoàn 53 không còn một bóng người!
Chúngtôi chạy ra bãi L-19. Nơi này cũng rất vắng vẻ. Tôi và Hưng chia nhau làm việc.Anh Hưng lo kiểm soát bình điện, còn tôi kiểm soát bình xăng. Khi tìm được chiếcphi cơ có điện và xăng đầy đủ thì một nhóm khoảng 5 người đến xin đi theo;nhưng vì chiếc L-19 chỉ có 2 ghế cho nên cuối cùng trên phi cơ chỉ có tôi, Hưngvà 2 Thiếu Tá trực thăng. Vì trong tình trạng khẩn cấp, anh Hưng đã không raphi đạo mà vội vã cho tàu cất cánh ngay trên taxi way (đường dẫn ra phi đạo).Nhưng phi cơ bị quá tải, không đủ sức nâng; vì vậy phi cơ không cất cánh nổi. Sauvài phút điều đình, một vị Thiếu Tá bằng lòng rời phi cơ. Cuối cùng trên tàu còn3 người và chúng tôi đã an toàn đáp xuống phi trường Bình Thủy, Cần Thơ khoảng1:30 giờ trưa 29/4.
Vừara khỏi chiếc L-19, hai Quân Cảnh ập đến yêu cầu chúng tôi lên xe Jeep. Họ đưachúng tôi về văn phòng làm báo cáo vì chúng tôi đã tự ý đem phi cơ từ Tân Sơn Nhấtxuống Bình Thủy. Sau khi trình bày tình trạng an ninh tại Tân Sơn Nhất, Quân Cảnhđể chúng tôi tự do.
Ngaysau đó Thiếu Tá trực thăng chia tay chúng tôi để tìm gặp bạn bè. Phi trường CầnThơ lúc bấy giờ vẫn họat động rất bình thuờng, dường như không hề chịu một áp lựcnào của Cộng quân.
Tốiđến, chúng tôi gặp lại những Hoa Tiêu mà ngày hôm trước chúng tôi đã đưa họ từTân Sơn Nhất xuống Bình Thủy. Cùng với họ, chúng tôi vô tư ăn uống, vui chơi tạicâu lạc bộ trong phi trường. Không ai ngờ rằng đó là bữa ăn uống cuối cùng trênđất Việt.
Xem thêm: Bói Bài Hàng Ngày 12 Cung Hoàng Đạo, Tử Vi Hôm Nay, Tử Vi Ngày Mai
Sáng30/4, cùng với khoảng 20 người bạn, chúng tôi tụ tập trên sân của một Phi ĐoànA-37. Chúng tôi cùng quây quần lắng nghe tin tức của đài phát thanh Saigon quamột radio nhỏ.
Khinghe Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, chúng tôi bàng hoàng, tức tưởi!Mọi người cùng im lặng với tâm tư chua cay, tủi nhục của những kẻ thua cuộc!Vài phút sau, tất cả đồng loạt đứng dậy chuẩn bị ra phi đạo lấy máy bay để rờiphi trường, mặc dầu chưa biết sẽ đi về đâu! Tuy nhiên, chúng tôi còn do dự vìcó vài anh lính phòng thủ phi trường ngăn cản lối ra các bãi phi cơ. Rồi thật bấtngờ, một vị Trung Tá đã đánh liều, vượt qua những anh lính phòng thủ, thế làchúng tôi cùng chạy ùa theo. Tôi và anh Hưng cùng lập lại những công việc đãlàm lúc rời Tân Sơn Nhất để tìm một phi cơ đầy đủ xăng và điện.
Khoảng11:30 giờ trưa cùng ngày, chúng tôi rời phi trường Bình Thủy.
Thưaanh, sau khi cất cánh, anh và anh Hưng dự định bay đi đâu?
Saukhi đã bình phi, qua hệ thống vô tuyến trên phi cơ, chúng tôi liên lạc với vàingười bạn đang bay trong khu vực và cho họ biết chúng tôi sẽ trở về Saigon.Nhưng ngay sau đó, chúng tôi thay đổi huớng bay khi được tin Đệ Thất Hạm ĐộiHoa Kỳ đang chờ đón những quân nhân miền Nam ngoài khơi Vũng Tàu.
Khithấy hạm đội Hải-Quân Việt-Nam, tại sao anh và anh Hưng lại chọn HQ502?
Thưachị, đến hải phận Vũng Tàu, đầu tiên chúng tôi thấy cả vài chục chiếc tàu đánhcá cùng hướng ra biển. Vài phút sau đó chúng tôi thấy một chiến hạm của Hải-QuânViệt-Nam; chiến hạm này khá lớn nhưng nhỏ hơn HQ 502, trên boong tàu chật kínngười. Bay xa thêm một chút nữa, chúng tôi thấy Dương Vận Hạm Thị Nại, HQ 502,trên tàu cũng đầy nghẹt người. Chúng tôi xuống thấp để quan sát. Hình như tôiđã cầm một miếng vải trắng vẫy tay chào mọi người trên tàu. Tôi và Hưng cùngbàn với nhau, tàu lớn chắc chắn có xuồng cấp cứu; vì vậy chúng tôi bỏ ý địnhtìm chiến hạm của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ. Anh Hưng và tôi đồng ý nhảy xuống biểnđể theo HQ 502.
Trướckhi nhảy xuống biển, cảm tưởng của anh như thế nào?
Thưachị, trước khi nhảy ra khỏi chiếc L-19 tôi rất bình tĩnh. Tôi bảo anh Hưng chotàu bay lòng vòng để tôi cởi bỏ đôi giày. Chắc chắn lúc đó tôi không hề nghĩ đếncái chết. Tôi tin tưởng một cách tuyệt đối rằng cứ nhảy xuống biển rồi sẽ đượccứu vớt, do đó tôi đã không một chút phân vân, phóng ra khỏi phi cơ khi anhHưng hô “nhảy!”
ĐượcNgười Nhái Hải Quân vớt, cảm nghĩ của anh như thế nào?
Thưachị, tôi còn nhớ rất rõ, tôi đã nhảy xuống trước mũi chiếc HQ 502. Thế rồi contàu khổng lồ từ từ trôi qua tôi mà không hề thấy một chiếc xuồng cấp cứu nào đếnnhư tôi mong đợi. Tôi bắt đầu thất vọng! Đầu óc tôi lúc bấy giờ rất căng thẳngnhưng bình tĩnh. Rồi thật bất ngờ, một thanh niên bơi về phía tôi, trên tay anhmang theo một áo phao. Anh nói tôi ôm vào chiếc phao, dặn tôi cố sức đạp haichân thật mạnh, rồi anh kéo tôi về HQ502. Anh thật là một người can đảm, đầynhân ái đã bất chấp nguy hiểm để cứu vớt một người không hề quen biết.
Xincảm tạ Thiên Chúa và muôn vàn cám ơn anh Kiệt đã cứu mạng tôi.
Xinanh cho biết, thấy anh phi công nhảy ra, “tưng lên” rồi chìm ngay, anh nghĩ gì?
Thưachị, trước khi anh Kiệt kéo tôi về đến chiếc tàu thì tôi nghe tiếng chiếc L-19đâm xuống biển mé bên kia của chiếc HQ 502. Nhưng vì bị chiến hạm to lớn chekhuất, tôi không thấy được điều gì xảy ra phía bên kia. Sau khi được kéo lênboong tàu, câu nói đầu tiên tôi nghe là “bạnanh chết rồi”! Lúc đó tôi mới biếtanh Hưng đã vĩnh viễn ra đi!
Saukhi lên HQ502, anh nghĩ gì và cảm tưởng của anh về người bạn thiếu may mắn củaanh như thế nào?
Thưachị, lên được boong tàu tôi rất yếu và mệt, có lẽ không quen bơi lội. Sườn bêntrái của tôi bị sưng khá lớn. Tôi bị lột mất bộ quân phục đẫm ướt và được đặt nằmtrên một băng ca hay trên ghế của chiếc trực thăng, tôi không nhớ rõ lắm. Tôivô cùng buồn bã, chán chường trước cái chết của anh Hưng! Anh là người thân duynhất đã cùng tôi chia xẻ những gian nan, nguy hiểm trên đường trốn tránh cộng sản;đến khi được tạm yên ổn thì anh lại bị tử nạn! Những ngày sau đó tôi mang tâmtrạng chán chường của một người đã bị tước đoạt tất cả những gì mình yêu quí!Tôi nhận biết tôi đã thiếu anh Hưng một món nợ vô giá, không thể đền đáp được!
Thưachị, tối 30/4 người tôi vẫn còn yếu, tôi chỉ nằm nghỉ ngơi. Nhưng tối hôm sau,trong lúc tôi lẩn quẩn trên boong tàu để tìm người quen thì nghe hai người đànbà ở tầng trên bàn tán với nhau về chuyện anh phi công L-19 sống sót đã nhảy xuốngbiển chết theo người bạn đêm qua. Ngay lúc đó tôi đã đính chính và xác định vớihọ chính tôi là người đã nhảy ra khỏi chiếc L-19.
Thưaanh, gia đình anh Hưng nhận được tin buồn của anh ấy vào thời điểm nào? Ai báotin?
Thưachị, đầu năm 1976, tôi không nhớ rõ vào tháng nào, tôi đã gặp Thịnh, em ruột củaanh Hưng tại một khu buôn bán của người Việt tại Arlington, VA. Tôi báo tin buồnvới Thịnh. Năm 1978 tôi nhờ một người ở Kowloon, Hong Kong chuyển về Việt-Nam mộtlá thư cho bố mẹ tôi, trong đó tôi cũng báo tin về cái chết của anh Hưng. Cha mẹanh Hưng đã nhận được hung tin vào thời điểm này.
Sauđó, vào vài dịp trở về Việt-Nam thăm gia đình, tôi đều đến thăm Bố Mẹ anh Hưngvà kể đầy đủ chi tiết về chuyến đi và cái chết của anh. Sau này bố mẹ anh Hưngchuyển đi nơi khác, lâu rồi tôi không còn gặp Ông Bà nữa.
Từ1975 đến nay anh có biết tin hoặc liên lạc với Người Nhái đã cứu anh hay không?
Thưachị, trong thời gian còn ở trên HQ 502 tôi, tìm đến anh Kiệt để cám ơn đã cứu mạng.Khi đến trại Orote Point, Guam tôi cố tìm anh nhưng không gặp. Ở Guam vài tuần,tôi xin đi Indian Town Gap, PA. Từ đó đến nay tôi không gặp và cũng không nghetin tức gì về anh Kiệt. Tôi dò hỏi vài người bạn sinh sống ở quận Cam về anh Kiệtnhưng cũng không hiệu quả. Rất mong được tin của anh.
Xin anh vui lòng cho biết tình trạnggia cảnh của anh hiện tại?
Thưachị, tôi đã lập gia đình vào năm 1981. Được 3 cháu, hai gái, một trai. Hai cháulớn đã trưởng thành, xong Đại Học và đang có công việc vững chắc. Cô Út vẫn còntrong Đại Hoc. Bà xã tôi là Accountant, làm việc cho chính phủ Liên Bang. Phầntôi, trước khi về hưu là Kỹ Sư Cơ Khí (Mechanical Design Engineer) của hãngPhilips.
Lần đầu tiên đặt chân trở về phần đấtmà anh suýt vong mạng lúc anh tìm cách lìa xa, xin anh vui lòng cho biết cảm tưởngcủa anh như thế nào?
Thưachị, Bố tôi và 8 người em hiện còn sống tại Sài Gòn cho nên tôi đã trở về Việt-Namvài lần. Lần đầu tiên vào cuối tháng 11, 1990, gần đây nhất, vợ chồng tôi đãđưa các cháu về Việt-Nam ăn Tết Ất Mùi với Bố tôi. Ông cụ nay đã 88 tuổi.
Năm1990, trên chuyến bay của Thai Airways đáp xuống Tân Sơn Nhất có lẽ chỉ có vàingười Việt Nam, đa số là dân Úc và Đài Loan. Trước khi rời phi cơ, một anh bộ độibước vào trong thân tàu, tay cầm một tờ danh sách hành khách. Quả thật lúc đótôi rất lo sợ vì không biết chuyện gì sẽ xảy đến cho mình.
Khira khỏi máy bay, quan sát cảnh vật bên trong phi trường Tân Sơn Nhất, lòng tôidâng lên nỗi buồn vô tận! Thời còn tại ngũ, tôi đã quá quen thuộc với cảnh nhộnnhịp người ra, kẻ vào và không khí ồn ào, tấp nập của các phi cơ đủ loại lên xuống.
Hômtôi trở về, cả phi cảng chỉ có duy nhất một phi cơ của hãng Thai Airways. Tất cảnhà cửa, công sở xuống cấp một cách tàn tệ và hoang vắng ngoài sức tưởng tượng!Càng buồn hơn nữa khi đi qua những đường phố tàn tạ và chật hẹp trên quãng đườngtừ Lăng Cha Cả về nhà tôi. Tôi đã vô cùng xót xa trước cuộc sống quá nghèo nàn,cơ cực và luôn luôn sợ sệt của những người thân quen. Cay đắng hơn cả là khitôi gặp lại cô bạn cũ – người đã từng làm rung động biết bao trái tim của đámtrai tráng chúng tôi, ngày trước – nay ngồi bán xôi bên lề đường với bộ quần áová víu nhiều chỗ!
Nhữnggì tôi thấy và nghe được trong chuyến về Việt-Nam đầu tiên đã chứng minh rằngnhà cầm quyền Cộng Sản là một lũ độc tài, ngu dốt, đã đưa toàn dân đến cảnh lầmthan, đói khổ. Họ chỉ biết dùng quyền lực để đàn áp, bóc lột người dân.
Cảmtưởng của anh sau khi đọc bài ông Phạm Phú Nam phỏng vấn Điệp Mỹ Linh như thếnào? Làm thế nào anh có địa chỉ email của Điệp Mỹ Linh?
Tôivô cùng xúc động, ngồi yên lặng khá lâu, nhớ đến chuyện cũ. Khi đọc đến đoạnnói về chiếc L-19 thì tâm tư tôi lẫn lộn những cảm giác buồn bã, bùi ngùi, tiếcnuối! Đến câu hỏi của ông Phạm Phú Nam “Điềuđó có đúng hay không (lời đồn anh phi công phụ tự tử)?” Chị đã trả lời “Hơn 5000 người trên chiến hạm HQ502 khôngai xác quyết được. Nhưng đã mấy mươi năm qua không hề nghe anh phi công phụ lêntiếng”. Đọc đến đây tôi bỗng mang mặc cảm của một kẻ có lỗi và đang bị khiểntrách! Lỗi gì và lỗi với ai? Quả thật tôi không rõ. Bà xã tôi khuyên tôi nênliên lạc với tòa báo để làm rõ câu chuyện; nhưng tôi lại tìm chị vì biết chị làngười năm xưa đã chứng kiến chúng tôi nhảy ra khỏi chiếc L-19.
Xin cảm ơn anh.
Xincám ơn và chào chị.
1.- Ông Không Quân Nguyễn Viết Nhiễm nhờ ĐML giúp đểliên lạc với Biệt Hải Nguyễn Văn Kiệt – người đã cứu ông Nhiễm trên biển, nămxưa. Sau đó, ông Nhiễm đã đưa gia đình xuyên bang đi thăm gia đình Biệt HảiNguyễn Văn Kiệt. Câu chuyện “huynh đệ chi binh” trong bối cảnh chiến tranh cóđoạn kết thật đẹp!