Bạn đang xem: Anh nhớ em như đông về nhớ rét
- Cảm hoàiMột số bài cùng tác giả
- Người đi tìm hình của nước- Con cò- Xuân- Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?- Những sợi tơ lòng

Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây BắcKhi lòng ta đã hoá những con tàuKhi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hátTâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâuCon tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng?Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà NộiAnh có nghe gió ngàn đang rú gọiNgoài cửa ô? Tàu đói những vành trăngĐất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹpTàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khépTâm hồn anh chờ gặp anh trên kiaTrên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây BắcXứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùngNơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đấtNay rạt rào đã chín trái đầu xuânƠi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửaNghìn năm sau, còn đủ sức soi đườngCon đã đi nhưng con cần vượt nữaCho con về gặp lại mẹ yêu thươngCon gặp lại nhân dân như nai về suối cũCỏ đón giêng hai, chim én gặp mùaNhư đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữaChiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưaCon nhớ anh con, người anh du kíchChiếc áo nâu anh mặc đêm công đồnChiếc áo nâu suốt một đời vá ráchĐêm cuối cùng anh cởi lại cho conCon nhớ em con, thằng em liên lạcRừng thưa em băng, rừng rậm em chờSáng bản Na, chiều em qua bản BắcMười năm tròn! Chưa mất một phong thưCon nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạcNăm con đau, mế thức một mùa dàiCon với mế không phải hòn máu cắtNhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôiNhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủNơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?Khi ta ở, chi là nơi đất ởKhi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rétTình yêu ta như cánh kiến hoa vàngNhư xuân đến chim rừng lông trở biếcTình yêu làm đất lạ hoá quê hươngAnh nắm tay em cuối mùa chiến dịchVắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừngĐất Tây Bắc tháng ngày không có lịchBữa xôi đầu còn toả nhớ mùi hươngĐất nước gọi ta hay lòng ta gọi?Tình em đang mong, tình mẹ đang chờTàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vộiMắt ta thèm mái ngói đỏ trăm gaMắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếngMùa nhân dân giăng lúa chín rì ràoRẽ người mà đi, vịn tay mà đếnMặt đất nồng nhựa nóng của cần laoNhựa nóng mười năm nhân dân máu đổTây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơMười năm chiến tranh, vàng ta đau trong lửaNay trở về, ta lấy lại vàng taLấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng?Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăngLòng ta cũng như tàu, ta cũng uốngMặt hồng em trong suối lớn mùa xuân
Xem thêm: Phim Hài Mùa Hè Tiểu Thư Đi Học Tập 9 Angela Phương Trinh, Phim Tiểu Thư Đi Học

Nghệ thuật xây dựng hình ảnh trong “Tiếng hát con tàu”
Một trong những thành công nổi bật của bài thơ Tiếng hát con tàu là nghệ thuật sáng tạo hình ảnh. Có những hình ảnh được xây dựng theo thủ pháp tả thực, song tiêu biểu là những hình ảnh – biểu tượng chứa đựng những khái quát triết lí sâu sắc, thể hiện chất riêng của phong cách thơ Chế Lan Viên.Trong dòng hồi nhớ, những hình ảnh tả thực gắn liền với những kỉ niệm kháng chiến, là hình bóng của con người và thiên nhiên Tây Bắc đã in sâu trong kí ức nhà thơ: Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn; Lửa hồng soi tóc bạc; bản sương giăng, đèo mây phủ; Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng,… Như thế, kỉ niệm đã hiện hình bằng những chi tiết xác thực.Ngay nhan đề của bài thơ đã là một hình ảnh biểu tượng: Tiếng hát con tàu. Biểu tượng về khát vọng và niềm hân hoan lên đường này có cơ sở từ thực tế: những năm 1958 – 1960 có một cuộc vận động lên Tây Bắc xây dựng kinh tế miền núi. Chỉ có điều là vào thời điểm ấy chưa hề có đường tàu và con tàu lên Tây Bắc. Cho nên, Tây Bắc ở đây không chỉ dừng lại ở ý nghĩa một địa danh cụ thể mà nó còn có ý nghĩa biểu trưng cho cuộc sống của nhân dân, là mảnh đất lớn chứa đựng nhiều hứa hẹn, nơi khởi nguồn của mọi cảm hứng nghệ thuật chân chính. Chúng ta còn bắt gặp nhiều hình ảnh được xây dựng theo phương thức ẩn dụ như thế trong suốt bài thơ: gió ngàn đang rú gọi; vầng trâng; trái đầu xuân; Mẹ yêu thương; Mùa nhân dân giăng lúa chín; mẹ của hồn thơ; vàng ta đau trong lửa; Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân,… Những hình ảnh biểu tượng kích thích trí tưởng tượng, suy ngẫm của người đọc để tạo ra những liên tưởng sâu xa, bất ngờ. Bên cạnh đó, người đọc còn thấy hàng loạt các hình ảnh so sánh độc đáo: ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa – Mười năm sau còn đủ sức soi đường; Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ – cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa – Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa – Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa; Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét – Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng,… Những hình ảnh so sánh sinh động, liên tiếp, trùng điệp như thế có tác dụng trực tiếp thể hiện, cụ thể hoá những ý nghĩa vốn trừu tượng: ý nghĩa lớn lao của cuộc kháng chiến chống Pháp đối với sự sống nhân dân nói chung, người nghệ sĩ nói riêng; mối quan hệ khăng khít, máu thịt giữa nghệ thuật với cuộc sống nhân dân, đất nước; nỗi nhớ, tình yêu,…Qua Tiếng hát con tàu, có thể khẳng định: sức mạnh lay động của thơ Chế Lan Viên chính là nghệ thuật sống tạo hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng.
Xin tạm biệt đời yêu quý nhấtCòn mấy vần thơ một nắm troThơ gửi bạn đường, tro gửi đấtSống là cho và chết cũng là cho

Khát vọng hoà nhập với cuộc đời mới trong “Tiếng hát con tàu”
Tiếng hát con tàu là một dấu mốc cho thấy hành trình “từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui” của hồn thơ Chế Lan Viên. Ra đời trong những năm tháng ở miền đang hồ hởi với công cuộc dựng xây cuộc sống mới, bài thơ thể hiện khát vọng hoà nhập của thơ ca, nghệ thuật, xúc cảm ở người nghệ sĩ với cuộc sống rộng lớn đang rộn ràng nơi ấy. Cảm hứng này thể hiện rõ trong khổ thơ:Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?Tình em đang mong, tình mẹ đang chờTàu hãy vỗ dùm ta đôi cánh vộiMắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga.Người nghệ sĩ đã tìm thấy sự đồng vọng trong tiếng gọi của đất nước, của nhân dân. Tiếng gọi của đất nước, nhân dân ngoài kia đã trở thành tiếng lòng thôi thúc: “Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi”. Ý nguyện lên đường, hoà vào cuộc sống mới được khẳng định dưới hình thức câu hỏi tu từ. Tự giác như thế, nhà thơ đồng thời cũng cảm nhận thấy rõ sự mong đợi, ngóng chờ của đất nước, nhân dân đối với nhiệt huyết của mình: Tình em đang mong, tình mẹ đứng chờ. “Tình em”, “tình mẹ” ở đây vừa là tình nghĩa của những con người cụ thể đã được nhà thơ nhắc đến ở phần trước bài thơ, vừa là hình ảnh mang ý nghĩa khái quát về nhân dân, những tình cảm của cuộc sống mới.Cảm hứng của thi sĩ còn gắn với khát vọng lên đường, ra đi. Khi Tổ quốc bốn bế lên tiếng hát. Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu, nhà thơ mong muốn con tàu – cũng chính là khát vọng lên đường, tiếng hát gọi từ cuộc sống – chắp cánh cho tâm hồn mình, mơ ước được bay lên cùng tiếng hát đang vang lên nơi nơi. Ngữ điệu mệnh lệnh, cầu khiến của hai câu thơ sau (Tàu hãy vỗ dùm ta đôi cánh với — Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga) diễn tả cảm xúc say mê, háo hức khác thường. Chữ “Vội” cho thấy sự hối hả của thời gian tương phản với “trăm ga” — chỉ không gian rộng lớn. Ra đi trong thời gian gấp gấp, không gian rộng lớn như thế, nhà thơ đã thực sự để hồn mình tự do trong niềm say mê cháy bỏng được hấp dẫn từ chính vẻ đẹp của cuộc sống mới.Chế Lan Viên đã thể hiện chân thành khát vọng hoà nhập vào cuộc đời mới bằng những hình ảnh thơ giàu sức gợi cảm.